CON CHIÊN THỨ 100

 

Thứ Sáu trong tuần lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa, chúng ta mừng Lễ Thánh Tâm Chúa, và ngay ngày hôm sau, Thứ Bảy, chúng ta mừng Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Giáo Hội lại cử hành Lễ Thánh Tâm Chúa vào thời điểm phụng niên này, thời điểm trong tuần Lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa, và tại sao Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, một lễ trước Công Đồng Chung Vaticanô II được mừng cố định vào ngày 22/8, hiện nay lại được Giáo Hội mừng vào ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu?

Nói chung, nếu Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu hiệu cho Mạc Khải Thần Linh, cho T́nh Yêu Thiên Chúa vô cùng xót thương nhân hậu đối với loài người, đến nỗi đă hóa thành nhục thể ở với loài người và đă hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc con người, th́ Khiết Tâm Mẹ Maria là biểu hiệu cho đức tin tuân phục của con người mà Mẹ là đại diện tỏ ra trước T́nh Yêu Thiên Chúa, tỏ ra chấp nhận Mạc Khải Thần Linh của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.

Phần tôi, mỗi lần nghĩ đến Thánh Tâm Chúa tôi hết sức nghẹn ngào cảm động, đến nỗi, đúng như một câu đáp ca đă diễn tả: “Lưỡi tôi dính vào cuống họng”. Bởi khi nghĩ đến Thánh Tâm Chúa tôi thường cảm nhận sâu xa những điều sau đây:

Thứ nhất, Thiên Chúa không phải chỉ là một Thần Linh Toàn Năng mà c̣n là một Người Cha Toàn Thiện nữa. Nếu trong thời Cựu Ước, Ngài đă tỏ ra Ngài là một Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất Toàn Năng thế nào th́ trong thời Tân Ước Ngài cũng đă tỏ ra Ngài là vị Thiên Chúa Ba Ngôi Toàn Thiện như vậy. Ngài Toàn Thiện ở chỗ yêu thương con người. Ngài yêu thương con người ở chỗ muốn cho họ được Hiệp Thông Thần Linh với Ngài, được sống chính Sự Sống Thần Linh vô cùng trọn hảo và viên măn của Ngài. Để con người được Hiệp Thông Thần Linh với Ngài, Ngài chẳng những đă tỏ ḿnh ra cho họ qua Lời Nhập Thể là Con Một của Ngài, mà c̣n, ngay trong chính khi tỏ ḿnh ra cho họ nơi Con Người Giêsu Kitô Thiên Sai của ḿnh, Ngài đă ban Thánh Thần của Ngài cho họ nữa, để đúng như lời Chúa Giêsu đă mạc khải ở Lời Nguyện Hiến Tế kết Bữa Tiệc Ly “như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha, để họ cũng được hiệp nhất trong Chúng Ta” (Jn 17:21-22). Mối Hiệp Thông Thần Linh này đă được hiện thực một cách cụ thể ngay trên trần gian này nơi Bí Tích Thánh Thể, một Bảo Chứng Hiệp Thông Vĩnh Hằng.

Thứ Hai, Thiên Chúa Toàn Thiện chẳng những tỏ ḿnh ra cho chung con người qua biến cố Lời Nhập Thể và Vượt Qua, cũng như ban Thánh Thần của Ngài cho chung Giáo Hội qua biến cố Thánh Thần Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, mà c̣n tiếp tục tỏ ḿnh ra với mỗi một con người, trong đó có tôi, như con chiên lạc thứ 100 của Ngài (x Lk 15:4), một ngôi vị con người đă được Ngài biết trước khi tôi xuất hiện trong ḷng thai mẫu (x Jer 1:5). Nghĩa là Ngài tiếp tục tỏ ḿnh ra và thông ḿnh ra cho tôi, cho mỗi một người chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta được nhận biết Ngài hơn như Chúa Kitô nhận biết Ngài, cũng như được hiệp thông với Ngài hơn bằng Thánh Thần của Ngài. Đó là lư do tôi cảm thấy vô cùng xúc động và thấm thía khi đọc đến những lời mạc khải tư sau đây của Chúa Giêsu với nữ giáo dân Magarita trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của Người. V́ tôi thấy những lời ấy chẳng những hợp với cảm nghiệm sống đạo thực tế của tôi mà c̣n hoàn toàn hợp với tinh thần Phúc Âm nữa.

Lời mạc khải tư thứ nhất về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Thời giờ con sống trong những khoái lạc hăo huyền là thời giờ Cha đợi chờ con” (ngày 11-7-1967). Ôi, thật là chí lư. Thật là cảm kích. Trong khi tôi sống trong tội lỗi, đang t́m kiếm những sự giả trá mau qua một cách mù tối, th́ Thiên Chúa là Cha tôi ở trên trời vẫn đợi chờ tôi. Đó là h́nh ảnh một vị Thiên Chúa Nhập Thể đang ngồi ở bờ giếng Giacóp vào buổi trưa nóng bức để chờ đợi và gặp cho bằng được người nữ Samaritanô ngoại lai tội lỗi sống với 6 người chồng, một con người cảm thấy ḿnh tội lỗi chỉ dám ra giếng kín nước vào lúc vắng người nhất nhưng có ngờ đâu lại là lúc Thiên Chúa đang ngồi chờ gặp chị (x Jn 4:6-7).

Lời mạc khải tư thứ hai về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Trong con mắt của Cha, một tội nhân t́m kiếm Cha th́ không c̣n là một tội nhân nữa, mà là một linh hồn bị thương đang trên đường t́m về Ánh Sáng và Chân Lư” (ngày 21-1-1969). Ôi, Cha trên trời luôn sẵn sàng tha thứ cho tội nhân chúng ta trước khi chúng ta ngỏ lời xin Ngài tha thứ nữa ḱa. Bởi thế, điều Ngài làm đau ḷng nhất và tội phạm đến Ngài nhất không phải là tội sát nhân, loạn luân, trộm cướp v.v. mà là thái độ không tin tưởng vào ḷng thương xót vô cùng nhân hậu của Ngài, tức là tội phạm đến Thánh Linh, một tội không thể tha thứ cả ở đời này lẫn đời sau. Không phải hay sao, trong thời gian đứa con thứ đang phung phá gia tài ân sủng được Cha chia cho, th́ Ngài chẳng những đợi chờ nó, mà c̣n trông ngóng nó về, đến nỗi, vừa trông thấy bóng nó xuất hiện từ đằng xa, nghĩa là nó chưa thấy Cha nó, th́ chính ông đă tự động chạy lại với nó, đón nó, ôm choàng lấy nó mà hôn lấy hôn để rồi (x Lk 15:20). Chứ không cần phải đợi nó bước chân vào đến nhà và qú xuống van lạy ông mới tha cho nó, thậm chí bị ông chửi cho một trận rồi mới chịu tha, như thường xẩy ra nơi những người cha trần gian hay sao?

Lời mạc khải tư thứ ba về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một Người Cha tội nghiệp khi phải trừng phạt con cái ḿnh để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại” (ngày 19-12-1973). Ôi, tội nghiệp Cha tôi, v́ mỗi khi con người tội lỗi gặp khổ đau là hậu quả xẩy ra cho họ bởi tội lỗi do chính họ gây ra, họ chẳng những không thức tỉnh mà c̣n lao đầu thêm vào tội lỗi, phạm thêm tội lỗi, ở chỗ than trách trời cao không có mắt. Tất cả mọi đau khổ trên đời này thật sự không phải trực tiếp từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa Toàn Thiện không bao giờ lại dựng lên sự dữ, như đau khổ và chết chóc. Thế nhưng, Ngài Toàn Thiện và Toàn Năng ở chỗ Ngài đă dùng chính những hậu quả bởi tội lỗi loài người này để cứu chuộc họ, để làm cho họ nhận biết bản thân yếu đuối của họ mà tin tưởng Ngài hơn. Đó là lư do, cho dù vô cùng toàn năng và khôn ngoan thượng trí, Ngài đă không dùng cách nào khác để cứu chuộc con người, ngoài Thập Giá Chúa Kitô. Đúng thế, nếu người đàn bà ngoại t́nh không bị Thiên Chúa công minh trừng phạt bằng sự kiện chị bị bắt quả tang đang làm việc tồi bại trước mắt thế gian và phản luật Moisen cũng là luật Chúa, th́ chị đâu có dịp được trực diện với Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa là T́nh Yêu ở giữa loài người, và nhờ đó, chị đă cảm nhận được Người xót thương nhân hậu là chừng nào để có thể nhận biết ḿnh mà trở về với Người bằng cuộc sống tốt lành hơn (x Jn 8:3-4, 10-11).

Lời mạc khải thứ tư về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Trước khi Cha đến như một Vị Quan Án công minh, th́ Cha đến như một Đức Vua của T́nh Thương. Trước ngày công thẳng, dân chúng sẽ được thấy một dấu hiệu trên các tầng trời như thế này: Tất cả ánh sáng trên các tầng trời sẽ bị tắt hết, và bóng tối khủng khiếp sẽ bao trùm cả trái đất. Đoạn trên bầu trời sẽ xuất hiện h́nh bóng cây thánh giá, và từ những kẽ hở của các bàn tay chân bị đóng đanh của Chúa Cứu Thế sẽ phát ra những ánh sáng cả thể chiếu soi mặt đất trong một khoảng thời gian. Điều này sẽ xẩy ra không lâu trước ngày cùng tận”.

Riêng lời mạc khải này, Chúa Giêsu đă nói với nữ tu Maria Faustina. Trong lễ phong thánh cho vị thánh nữ được Ngài gọi là vị thánh đầu tiên trong ngàn năm thứ ba này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă trích ra một câu Chúa Giêsu nói với chị rằng: “Nhân loại sẽ không t́m thấy b́nh an cho tới khi nó tin tưởng vào ḷng thương xót Chúa” (Nhật Kư, p. 132 – Tuần San L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ phát hành ngày 3/5/2000, trang 1). Rất đặc biệt là câu được Đức Thánh Cha trích lại này lại sát liền với câu được trích dẫn trên đây (Divine Mercy in My Soul – Diary St. M. Faustina Kowalska, Marian Press 1987, Bản dịch Anh Ngữ trang 139: câu ĐTC trích ở đoạn 300, c̣n câu ở đây trích ở đoạn 301). Nếu Đức Thánh Cha là vị Mục Tử Tối Cao của Giáo Hội, tiêu biểu cho Đức Tin Công Giáo, đă tin vào lời mạc khải tư của Chúa Giêsu nói với chị Faustina th́ câu được trích dẫn ở đây cũng là những điều chân thật, tức những điều chắc chắn sẽ xẩy ra đúng như Chúa Giêsu báo trước. Nghĩa là, trước khi Thiên Chúa tỏ đức công minh của Ngài ra th́ Ngài tỏ ḷng thương xót, để sau đó không ai c̣n oán than Ngài được nữa. Thế nhưng, Ngài đă tỏ ḷng thương xót trước khi ra tay công thẳng như thế nào, nếu không phải, trước hết, nhờ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

Thật vậy, ngày 30/4/2000 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă phong hiển thánh cho chị nữ tu Faustina người Balan, vị tông đồ của Ḷng Thương Xót Chúa và cho Ḷng Thương Xót Chúa. Và vào tháng sau đó, Giáo Hội đă chính thức thiết lập Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh là Chúa Nhật Lễ Chúa T́nh Thương, và Lễ Chúa T́nh Thương này đă được Giáo Hội chính thức cử hành lần đầu tiên vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh Năm 2001. Chúa Giêsu, vào thời điểm giữa hai Thế Chiến I và II, thật sự đă yêu cầu chị thánh Faustina xin Giáo Hội cho thiết lập Lễ Kính Chúa T́nh Thương này vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh. V́ bài Phúc Âm của Chúa Nhật này phản ảnh nội dung sứ điệp Người tỏ cho chị thánh biết và qua chị cho thế giới biết, đó là Thiên Chúa yêu thương con người tội lỗi và muốn họ hăy hoàn toàn tin tưởng vào Người. Đúng thế, hơn bao giờ hết, con người ngày nay càng văn minh vật chất càng băng hoại về luân lư và đạo đức. Tất cả những ǵ được Thiên Chúa thiết lập ngay từ ban đầu là hôn nhân nam nữ và sinh con đẻ cái, th́ con người văn minh ngày nay chẳng những phá đổ bằng luật pháp cho phép ly dị và phá thai, mà c̣n thay thế vào đó, vào những ǵ được Thiên Chúa thiết lập ngay từ ban đầu ấy những thần tượng, những con ḅ vàng do họ đúc nên, như luật cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh sao bản phi tính dục cloning.

Đó là lư do, ngay từ đầu thế kỷ 20, Chúa đă tỏ ḷng thương xót Chúa qua Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima. Quả vậy, vào lần hiện ra thứ ba, ngay sau khi tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết toàn bộ Bí Mật Fatima, Mẹ Maria đă xin ba em là: “Sau mỗi chục kinh, các con hăy đọc: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha tội chúng con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng. Nhất là những linh hồn cần đến ḷng thương xót Chúa hơn’”. Vào lần hiện ra thứ bốn sau đó, 19/8/1917, Đức Mẹ đă tiết lộ thêm cho 3 Thiếu Nhi Fatima một bí mật nữa liên quan đến ḷng thương xót Chúa thế này: “Nhiều linh hồn phải sa hỏa ngục v́ không có ai chịu hy sinh bản thân ḿnh mà cầu nguyện cho họ”. Bởi thế, ngay trước đó, Mẹ đă kêu gọi 3 em rằng: “Các con hăy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, và hăy hy sinh cho các tội nhân”.

Hơn bao giờ hết, nếu càng văn minh vật chất con người càng băng hoại về luân lư, chẳng khác nào như một tên hề đang đóng khố đi giầy tây trên khấu trường lịch sử thế giới, th́ quả thực con người càng đáng thương hơn bao giờ hết, càng “cần đến ḷng Chúa thương xót hơn” hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm sống đạo hết sức thực tế cho thấy, càng tội lỗi con người lại càng khó tự ḿnh trở về với Chúa, trái lại, càng ch́m sâu vào tội lỗi, đến nỗi, muốn trở về với Ḷng Thương Xót Chúa họ cần phải có phép lạ. Đó là lư do, cũng ngay từ đầu thế kỷ 20, Cha trên trời đă ban cho con người một phương thế cứu rỗi, đó là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.

Nếu Bí Mật Fatima có 3 phần, phần nhất là thị kiến hỏa ngục, và phần ba là thị kiến tử đạo, th́ phần hai liên quan đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria. Thật vậy, nếu cốt lơi của chúng Sứ Điệp Fatima và riêng Bí Mật Fatima là cứu độ th́ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria quả thực là phương thế Thiên Chúa muốn sử dụng để cứu độ con người trong thời điểm hết sức khẩn trương, thời điểm “trước khi Cha đến như một Quan Án chí công”, như Chúa Giêsu đă tiết lộ cho Chị Thánh Faustina biết. Đúng thế, trọng tâm của cả Bí Mật Fatima và riêng phần hai của bí mật này đó là câu: “Các con vừa trông thấy hỏa ngục. Để cứu những linh hồn tội nhân cho khỏi sa hỏa ngục, Thiên Chúa muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu điều Mẹ nói với các con đây (tức là ḷng tôn sùng Trái Tim Mẹ) được thực hiện th́ nhiều linh hồn sẽ được cứu độ và thế giới sẽ có ḥa b́nh”.

Đó là lư do, vào lần hiện ra thứ hai trước đó, 13/6/1917, Mẹ Maria đă tỏ cho chung 3 Thiếu Nhi Fatima thấy Trái Tim Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ có ṿng gai quấn chung quanh lần đầu tiên, rồi nói riêng với Lucia rằng “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa”. Lucia thực sự là em thiếu nhi phải ở thế gian lâu hơn (Phanxicô chết năm 1919 ở tuổi 11 và Giaxinta chết năm 1920 ở tuổi 10) với sứ mệnh được Mẹ Maria tiết lộ cho em biết cũng vào lần hiện ra thứ hai là “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”, tức để truyền bá ḷng sùng kính Trái Tim Mẹ.

Phải, chị Lucia chính là Thiếu Nhi Fatima sứ giả của Mẹ Fatima và cũng là Tông Đồ Fatima Thế Giới đầu tiên trong việc làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến, qua việc thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Chị Lucia đă không hết sức nỗ lực là ǵ trong việc thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria trên thế giới, khi làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến qua những trường hợp điển h́nh sau đây:

Thứ nhất là việc giữ 5 Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng có ư đền tạ Mẹ, Đấng mang Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội hằng bị những kẻ vong ân bội nghĩa liên lỉ đâm vào bằng những gai tội lộng ngôn và vô ơn của họ, như Đức Mẹ chỉ cho chị ngày 10/12/1925, đă được chị tŕnh với giáo quyền địa phương và đă được thẩm quyền địa phương tuyên bố công nhận cho phép thực hành việc tôn sùng này ngày 13/9/1939.

Thứ hai là việc thiết lập Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ cho toàn Giáo Hội hoàn vũ cùng mừng kính như một lễ chính của Giáo Hội, như chị đă đề cập đến trong thư chị viết tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô XII ngày 24/10/1940, cũng được thực hiện, như văn thư của Thánh Bộ Lễ Nghi ngày 4/5/1944 đă đề cập: Để ghi nhớ cuộc hiến dâng này (cuộc hiến dâng loài người lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại do Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài (ĐTC Piô XII) đă quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

Thứ ba là việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, như Mẹ, ở Fatima ngày 13/7/1917 đă ngỏ ư yêu cầu: Mẹ sẽ trở lại để xin dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và ở Tuy ngày 13/6/1929 đă chỉ cho cách hiến dâng: Đă đến lúc Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hiệp cùng với tất cả các giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Và, kể từ ngày 24/10/1940, ngày chị Lucia viết thư tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô XII về yêu cầu này của Đức Mẹ, việc hiến dâng đă diễn tiến tất cả 5 lần mới thực sự hoàn thành và có công hiệu.

Lần thứ nhất vào ngày 31/10/1942, ngày kết thúc Ngân Khánh 25 năm (1917-1942) Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, do Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện tại giáo đô Rôma.

Lần thứ hai vào ngày 7/7/1952, ngày lễ kính hai thánh tông đồ của sắc dân Slavs, trong đó có Nga, là thánh Cyrilô và Mêthôđiô, cũng do Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện tại Giáo Đô Rôma.

Lần thứ ba vào ngày 21/11/1964, dịp kết thúc kỳ họp thứ ba của Công Đồng Chung Vaticanô II và là dịp Công Đồng công bố Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội Lumen Gentium Ánh Sáng Muôn Dân, trước mặt toàn thể các vị giám mục trên thế giới, Đức Thánh Cha Phaolô VI đă công bố tước hiệu Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội và hiến dâng thế giới cho Mẹ.

Lần thứ bốn vào ngày 13/5/1982, ngày kỷ niệm đúng một năm bị ám sát hụt, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă đến tận Fatima để tạ ơn Đức Mẹ và chính thức hiến dâng Nước Nga như Mẹ muốn.

Lần thứ năm vào ngày 25/3/1984, ngày lễ Đức Mẹ Thụ Thai Ngôi Lời Nhập Thể, ngày kỷ niệm mở màn cho công cuộc cứu thế của Chúa Giêsu và Mẹ Đồng Công Maria, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, tại giáo đô Rôma, đă hợp cùng với tất cả các giám mục trên thế giới hiệp dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

Qua việc Giáo Hội, mà đại diện là chính Đức Thánh Cha và các giám mục trên thế giới, hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội này, đă là một việc làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến trên hết. Quả nhiên, sau biến cố hiến dâng được thực hiện theo đúng ư Ngài muốn và cách Ngài muốn, Thiên Chúa đă tỏ ḷng xót thương thế giới bằng việc thực hiện lời Ngài hứa là làm cho Nước Nga trở lại vào ngày 25/12/1991, khi vị lănh tụ cuối cùng của khối Liên Bang Nga Cộng là Gorbachev tự động từ chức, và sau khi xẩy ra Biến Cố Đông Âu năm 1989 là biến cố bắt đầu đột biến từ chính quê hương Balan của Vị Giáo Hoàng đă hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ v́ nhận thức được Ngài được cứu sống trong vụ ám sát tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981, tức vào ngay ngày kỷ niệm Mẹ hiện ra ở Fatima lần đầu tiên 13/5/1917.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL